SIÊU ÂM TÚI MẬT
BS PHAN ĐỨC TÀI
Hiện nay trên thế giới siêu âm vẫn là phương pháp chẩn đoán hình ảnh hàng đầu trong đánh giá túi mật và đường mật. Các chỉ định chính gồm nghi ngờ sỏi mật, viêm túi mật, và tắc mật.
BS PHAN ĐỨC TÀI
Hiện nay trên thế giới siêu âm vẫn là phương pháp chẩn đoán hình ảnh hàng đầu trong đánh giá túi mật và đường mật. Các chỉ định chính gồm nghi ngờ sỏi mật, viêm túi mật, và tắc mật.
1. Túi mật
1.1. Giải phẫu bình thường
Túi mật nằm trong hố mặt dưới gan phải, hố túi mật, kéo dài từ gần đầu phải của
cửa gan tới bờ dưới gan. Trên mặt cắt ngang bằng siêu âm, cổ túi mật nằm tương
đối cố định trong rãnh liên thùy chính, giữa thùy phải và phân thùy giữa (Hình 1A, 1B). Trên mặt cắt dọc
bằng siêu âm, rãnh liên thùy chính tăng âm có thể thấy giữa túi mật và tĩnh
mạch cửa phải ở nhiều người (khoảng 70%)(xem Hình 1A và 1B)[1]. Nhận ra mối liên
quan giữa túi mật và nhánh liên thùy chính là quan trọng, đặc biệt khi túi mật
co không chứa dịch, hoặc chứa đầy sỏi hoặc bùn mật. Túi mật được chia thành
đáy, thân, và cổ (H 2A và H 2B). Đáy túi mật rộng nhất, cổ túi mật hẹp nhất và
nối với ống túi mật. Nếp niêm mạc của cổ và ống túi mật gấp thành các van xoắn
(van Heister) (xem Hình
2A và 2B). Thành phải túi
mật có một túi nhỏ (túi Hartmann) lồi về phía tá tràng; tuy nhiên
túi này nhỏ nên siêu âm không thể thấy [2]. Trên siêu âm, túi mật hình quả
lê, chứa đầy dịch trống âm. Thành túi mật bình thường tăng âm và rõ, chiều dày
≤ 3mm. Số đo chính xác nhất được thực hiện ở thành trước trên trục dọc khi chùm
sóng âm vuông góc với thành túi mật. Đầu dò đặt nghiêng có thể gây giả dày
thành túi mật. Túi mật bình thường dài 8 đến 12cm. Đường kính trước sau và
đường kính ngang đo trên trục dọc ≤ 4cm ở trưởng thành [3].
Bản đầy đủ:
https://drive.google.com/file/d/1jhsEdeshKeRm0BX_dPr3koHTUWOPllNg/view?usp=sharing
Bản đầy đủ: